✨Ngư cụ truyền thống Việt Nam
Ngư cụ truyền thống Việt Nam là những công cụ, dụng cụ được ngư dân sử dụng để khai thác, đánh bắt các loại thủy, hải sản bằng phương pháp thủ công, cổ truyền. Nhiều loại ngư cụ cổ truyền được người Việt sáng chế, sử dụng từ xa xưa còn truyền lại đến ngày nay với số lượng rất lớn, đa dạng, phong phú về loại hình... Một số ngự cụ tiêu biểu gồm: đó, lờ, te (xiệp), câu, đăng, đáy, ống lươn, vó (bè, tép), dậm, mơm, chài, lưới, giỏ…
Một số ngư cụ truyền thống
Dậm
thumb|Một cơ sở sản xuất dậm
Đây là loại ngư cụ dùng để đánh bắt các loài thủy sản ở những nơi nước không quá sâu (không quá hai phần ba chiều cao người). Đề đánh bắt được hải sản cần có dậm và mõ dậm.), đường kính 4 – 6 cm, dài 50 – 80 cm, rỗng ruôt. Ống có một đầu bịt kín, trên thành ống đục 3-4 lỗ nhỏ thông hơi cho lươn thở, đầu còn lại rỗng được đính với hom. Hom được đan bằng nan tre, hình phễu, lươn chui được vào nhưng không chui được ra.
Để bắt lươn cần phải dùng mồi dẫn dụ. Mồi được chế biến chủ yếu từ giun, ốc, nhái... băm nhỏ rồi trộn nhuyễn với đất và cám tạo độ dẻo để không tan trong nước, bám được vào thành ống lươn. Ống lươn được đặt ở những nơi có bùn, để nghiêng 45 độ, phần đáy ống nhô lên khỏi mặt nước khoảng 10 cm. Thời điểm đặt ống lươn vào buổi tốt, thời điểm vớt ống vào sáng sớm ngày hôm sau..
Đăng thường được làm bằng lưới hoặc bằng tre, có cấu tạo đa dạng, phong phú tùy theo ngư trường đánh bắt, đối tượng đánh bắt, tập quán đánh bắt vùng miền. Đăng tre thường được dùng để đánh bắt tôm, cá nhỏ ở vùng nước có độ sâu nhỏ (ven sông, ao, đầm…). Đăng lưới được làm bằng lưới và hệ thống dây giềng, thường được sử dụng để khai thác cá ngoài biển; kích thước và quy mô lớn và rất lớn, cánh lưới, lưới dẫn có thể dài đến hàng ngàn mét, diện tích vây lưới có thể rộng từ 1.000-2.000m².
Vó tép
Là loại ngu cụ dùng để bắt tép, cá loại nhỏ ở những vùng nước nông. Vó có cấu tạo gồm: gọng vó, lưới vó. Gọng vó thường làm bằng tre; thường chọn từ những cây tre già, chặt từng đoạn dài tầm sải tay, pha nhỏ thành bốn gọng vó, uốn cong hình chữ U.
Lưới vó được làm bằng lưới bện, hoặc được tận dụng từ những chiếc màn cũ, cắt hình vuông, mỗi chiều khoảng 60 cm. Mỗi lưới vó vá thêm hai hoặc ba mụn vải về phía các góc để phết mồi nhử tép.
Mồi nhử tép được nấu bằng cám, cơm, cho thêm chút vôi; được đánh nhuyễn và miết vào mấy miếng vải vá mặt vó.
Để cất vó, chọn những vị trí nước không quá sâu, nước lặng hoặc dòng chảy chậm, đặt vó xuống sao cho bằng phẳng, để một lúc để lôi cuốn tép vào vó ăn môi rồi cất. Khi cất, khẽ luồn đầu cần dưới óc vó và vừa cất nhẹ nhàng, vừa kéo thật gọn, khi rốn vó sắp lên khỏi mặt nước thì dằn cần lại để có độ dừng sao cho vó không bung lên hất tép ra ngoài. Sau đó, tay trái giữ cần, tay phải nhúm chân góc vó và nghiêng ngược chiều gió khẽ giũ tép vào rá, rổ, giỏ...

(nghe)]] thumb|Gogona thumb|upright|Slovak "drumbľa" thumb|Đàn môi của các dân tộc Việt Nam thumb|right|Đàn môi và bao thumb **Đàn môi** (Hán Việt: Khẩu huyền, 口弦, Bính âm:kǒu xián) để chỉ