✨Trang phục Việt Nam
Trang phục truyền thống Việt Nam bao gồm các loại y phục của người Việt và y phục cung đình.
Một số quan điểm khác tổng quát các dân tộc đã sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay từ lâu đời, chẳng hạn như người Chăm-pa, người Khmer và các dân tộc thiểu số khác.
nhỏ|[[Cổn Miện (ngự phục của hoàng đế)]]
Lịch sử
Trang phục trước thế kỷ XI
Trước thời Bắc thuộc, có sách ghi người Việt mặc áo cài bên trái,. Kể từ thời tự chủ thế kỷ thứ 10 trở đi thì áo người Việt đại thể có ba loại căn cứ theo cách cắt cổ áo:
Áo giao lĩnh - tràng bạt: phía trước cổ là vạt bên trái buộc chéo sang nách áo bên phải. Áo Giao Lĩnh xuất hiện rất sớm ở Việt Nam, có lẽ vào khoảng thời kì Bắc thuộc lần thứ nhất trong thời Đông Hán, sau khi Mã Viện đánh bại khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc đời Trần có chép về chi tiết nhỏ này trong ghi chép Uy Vũ miếu, chuyện của hai vị Phục Ba ở Lĩnh Nam (tức chỉ Việt Nam), ghi rằng: "Nhà Hán có hai ông Phục Ba đối với dân Lĩnh Nam đều có công đức. Ông Phục Ba trước là Bì Li Lộ Hầu, ông Phục Ba sau là Tân Tức Mã Hầu [...] nếu không phải Tân Tức (hầu) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ". Trải qua nhiều thế kỉ biến động, đến tận thời kì nhà Nguyễn, loại áo Giao Lĩnh vẫn tồn tại với vị trí độc tôn với vai trò là dạng thức của các áo lễ phục cao quý, dù áo Ngũ Thân cổ đứng đang chiếm thế thượng phong. Có thể nói, loại áo này mới chính là "áo cổ truyền" chuẩn theo ý nghĩa đối với người Việt vậy.
Áo trực lĩnh: áo cổ thẳng nói chung, bao gồm cả tràng vạt; bổ long
Áo viên lĩnh, hay bàn lĩnh: cổ áo cắt tròn ép sát vòng cổ, cài bên phải.
Đàn bà còn dùng yếm một mảnh vải vuông che phần ngực, một góc cắt lẹm đi rồi đính hai dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính hai dải vải, gọi là dải yếm, dài đủ để quành ra sau lưng rồi buộc lại ở trước ngực. Khi ở nhà làm lụng, người đàn bà có khi chỉ mặc yếm. Khi ra ngoài giao tiếp mới mặc thêm áo.
Ở phía dưới bụng thì ngày xưa đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Khố là mảnh vải hẹp mà dài. Người mặc quấn quanh bụng vài vòng rồi chèn từ phía trước bẹn ra sau cài chặt lại. Tích Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương đã nhắc tới việc trang phục dùng khố. Tuy nhiên, khẳng định này vẫn còn tranh cãi.nhỏ|giữa|850x850px|"Trúc Lâm đại sĩ xuất san đồ" (竹林大士出山圖) vua [[Trần Nhân Tông đắc đạo, xuất san (áo tràng vạt, tọa kiệu). Vua Trần Anh Tông (mặc bạch bào) cùng quan (đội toàn hoa quan) nghênh tiếp. Y phục là áo viên lĩnh|thế=]]
Thời Lý, Trần
Người Việt mặc loại áo dài cổ tròn (viên lĩnh) 4 vạt, gọi là áo "tứ điên"; dưới thì vận thường đen. Đàn ông đàn bà đều có thể mặc vậy. Ngoài ra, còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên nhỏ|Các vị quan thời [[nhà Nguyễn]] ngoài hay mặc váy bên trong (với nữ) hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên mặc quần hay khố (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh. Sứ giả Triệu Nhữ Thích bình rằng lối ăn mặc người Việt thời bấy giờ (1125) không khác người Tống là mấy. Nam đầu đội mũ đinh tự, nhìn như con ốc. Cả nam và nữ, quý tộc và thường dân đều đi đất và nhuộm răng đen.
Thời Lê
nhỏ|phải|Dân thời Lê (Đàng Ngoài) - sách "Vạn quốc nhân vật chi đồ" (万国人物图会) (1645). Nữ mặc áo trực lĩnh lộ yếm, đội nón dâu, nam gọt chỏm (đang tang hoặc quân binh) thumb|Trang phục người Đàng Trong, 1675 Áo trực lĩnh phổ biến, dùng làm thường phục trong dân gian (mặc lót trong là 1 viên lĩnh đơn y hoặc yếm). Màu sắc áo cũng đã thành lệ: đàn ông thường dùng áo màu xanh, khi có việc trọng đại thì dùng màu đen, màu thẫm. Người làm ruộng thì dùng màu nâu. Bông vải là hàng chính. Chỉ người sang trọng mới dùng hàng tơ lụa. Quần thì chỉ có hai màu trắng và nâu. Họa hoằn những người giàu có hay già cả mới dùng quần màu đỏ.
Căn cứ theo minh họa trong sách Vạn quốc nhân vật chi đồ (1645) của Nhật Bản thì vẽ người đàn bà đội nón dâu (rộng), tóc dài, mặc váy ở dưới, phía trên mặc áo trực lĩnh, mặc yếm trong. Đàn ông thì búi tóc, mặc một loại rông cài bên phải.
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 18, chúa Nguyễn Võ Vương ở Đàng Trong có sắc quy định y phục trong Nam, nhất là lối ăn mặc của phụ nữ, bỏ váy mà mặc quần, còn áo thì cài khuy, bỏ lối thắt vạt..
Hoàng Bào
Trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú ghi nhận: "Từ thời Lê Trung Hưng về sau, các lễ lớn như vua lên ngôi, tiến tôn và ban chiếu, đều đội mũ Xung Thiên, mặc Hoàng Bào,..." tạo bằng hai vòng quấn đầu tiên.
Đàn bà Bắc Bộ cuộn tóc vào trong khăn rồi quấn thành một vòng quanh đầu. Phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn đen mỏ quạ.
Người Việt còn dùng nhiều loại nón như nón ba tầm, nón ngựa, nón cụ
Hài, lí (giầy, dép, guốc)
Sách Giao Châu ký của Trung Hoa thì kể rằng Bà Triệu (thế kỷ thứ 3) chân đi guốc bằng ngà voi.
Người nông thôn thường đi chân đất. Khi có việc thì mới xỏ guốc bằng gỗ hay gộc tre, buộc quai dọc tết bằng dây mây, sau mới dùng quai ngang bằng da. Guốc phụ nữ đẽo thon hơn, sơn đen có hoa văn.Guốc đàn ông to bản, tục gọi là guốc xuồng. Gỗ thường để mộc nguyên màu không sơn phết nên gọi là guốc mộc
Ở thành thị đàn ông lẫn đàn bà còn dùng lí (履) (dép đơn giản nhất chỉ là một lớp da trâu, có khi đan bằng sơ dừa hay bằng cói, không có đế).Người xỏ ngón chân vào lỗ khuyết ở đằng mũi. Ở mu bàn chân có thêm một quai thẳng ngang như chữ "nhất" nên gọi là dép một. vào vòng bằng da ở đằng mũi.Vì loại lí này nặng nên không thể đi nhanh, mặc khi công phục. Hài mõm ếch khi tiện phục
Lễ phục
nhỏ|phải|Đôi hia thêu, một phần trong bộ triều phục của Hoàng đế Tế lễ Thời Nguyễn, dân gian dùng áo thụng, đội phong cân.
Tang lễ dùng vải sô trắng, nam thắt khăn trắng chống trượng đi đầu. Nữ chùm mền trắng hình dạng theo tang chế.
Lễ phục cung đình có quy chế nghiêm ngặt.
Văn quan dùng bì ngoa mũi tròn, võ quan dùng bì ngoa mũi nhọn
Nữ nhân hoàng tộc dùng phụng tích khi lễ phục
Thế kỷ 21
Áo dài được cách tân dựa theo áo lập lĩnh (ngũ thân) tay chẽn. Thập niên 1930 họa sĩ Cát Tường trong nhóm Tự lực Văn đoàn đã cách tân áo dài tân thời theo hướng tây hóa.
Áo dài trắng đã trở thành trang phục cho học sinh trung học ở Việt Nam. Một số nữ nhân viên, giáo viên, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc áo dài khi làm việc.
