✨Sông Dâu
Sông Dâu là một dòng sông cổ tại vùng Thuận Thành, Bắc Ninh. Sông hiện nay đã cạn nhiều, vết tích còn lại là những con ngòi hẹp, ao hồ đứt quãng, chỉ một vài khúc còn dòng chảy. Sông Dâu gắn liền với sự phát triển của vùng Dâu - Luy Lâu, thủ phủ của chính quyền cai trị phương Bắc thời Bắc thuộc và trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam.
Dòng chảy và hiện trạng
Sông Dâu vốn là một sông lớn, nối từ sông Cầu sang sông Hồng. Thực ra, sông Dâu phải "kinh qua" sông Tiêu Tương (Sông Tiêu Tương nối sông Cầu và sông Hồng, gặp sông Dâu ở Đình Bảng). Sông Tiêu Tương cùng với dòng Tào Khê, Suối Sẻ (bắt nguồn từ núi Phật Tích chảy vào sông Dâu) đã bị vùi lấp, kể cả sông Dâu.
Sông Dâu chạy từ Đình Bảng xuống Phật Tích, về vùng Dâu (Luy Lâu) tạo thành hào phía Tây thành Luy Lâu, sau đó đổ xuống Hà Mãn, Cửu Yên (Ngũ Thái) rẽ sang Cẩm Giàng, Gia Bình, Lương Tài đổ ra sông Thái Bình để ra biển Đông.
Dòng chảy sông Dâu ở phía nam sông Đuống thì còn rõ dấu vết. Bắt đầu là vị trí xóm Sông của thôn Đình Tổ (xã Đình Tổ), nơi có đoạn đê vào mùa nước to vẫn xảy ra hiện tượng rò rỉ nước kiểu mạch ngầm mạch sủi do đê đắp trên nền lòng sông Dâu cổ không đủ độ bịt kín các khe cứng đáy sông. Tiếp theo là dãy ao hồ dài nối nhau của thôn Đình Tổ, nơi thái sư Lê Văn Thịnh (thời Lý) từ nơi đày Thao Giang trên đường về quê đã ngã xuống tắt thở khi chỉ còn cách quê nhà hơn mười cây số. Tiếp đó là khu đồng trũng và dãy ao hồ thôn Trà Lâm và thôn Tư Thế (phường Trí Quả), nơi dấu vết phù sa còn rõ như ở ven dòng sông đang chảy năm xưa. Bãi Định (Khu phố Công Hà, phường Hà Mãn) gần cầu Dâu chín nhịp là nơi làm gốm nay thành chợ. Câu ca dao "Công Hà trồng bí trồng bầu" thêm phần khẳng định dòng chảy bồi đắp phù sa cho nơi đây. Qua chùa Dâu, sông chảy về phía Cầu Gáy của xã Nguyệt Đức, Thuận Thành rồi đổ vào sông Cẩm Giàng và ra sông Thái Bình, vết tích ngày nay còn lại là những con mương nhỏ, con ngòi hẹp và các ao hồ đứt quãng.
Vai trò với Luy Lâu
Sông Dâu chảy nối liền sông Đuống, tiến sâu vào phường Thanh Khương uốn khúc, lượn lờ tạo nên một vùng tụ thủy. Đây chính là nơi âm dương giao hòa, đất trời gặp gỡ tạo nên một vùng đất thiêng. Bao quanh chùa là 12 làng, các nhà địa lý phong thủy nổi danh cho đây là thế đất lớn. Chính vì lẽ đó mà Sỹ Nhiếp đã xây kinh đô Luy Lâu và chính nơi đất lành này mọc lên một ngôi chùa về sau trở thành trung tâm Phật giáo của người Giao Chỉ.
Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, trong đó Sông Dâu giữ vai trò trục không gian kiến trúc chính. Các công trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất bên bờ Sông Dâu (thành lũy bên một bờ sông). Các công trình kiến trúc, tôn giáo (đền đài, chùa tháp...) được xây cất trong thành, ngoài phố xá, làng mạc dọc bờ Đông Sông Dâu là chủ yếu, trong đó Chùa Dâu (Đền Bà Dâu) giữ vai trò trung tâm tôn giáo của đô thị Luy Lâu, được xây dựng quy mô bề thế
Theo các nguồn sử liệu, các nước phương Tây và phương Nam muốn buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ trước Công Nguyên và nhất là từ thế kỷ II-III trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu và thuyền buôn của họ thường xuyên có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu đã khẳng định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn - một đô thị cảng mang tính quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc
lại có câu:
Lênh đênh ba bốn thuyền kề
Chiếc ra cửa bể, chiếc về sông Dâu
hoặc có câu:
Lên đênh ba bể bốn bề
Chiếc xuôi Hà Nội, chiếc về sông Dâu
Như vậy, đến thế kỷ XIX, khi Thăng Long được đổi tên là Hà Nội thì con sông Dâu vẫn còn.
