✨Scharnhorst (lớp tàu tuần dương)
Lớp tàu tuần dương _Scharnhorst_ là lớp tàu tuần dương bọc thép thông thường sau cùng được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Bao gồm hai chiếc Scharnhorst và Gneisenau, chúng lớn hơn lớp Roon dẫn trước; kích thước tăng thêm này được sử dụng để gia tăng dàn pháo chính từ bốn lên tám khẩu. Đây là những chiếc tàu tuần dương Đức đầu tiên đạt đến chất lượng tương đương với những đối thủ Anh. Các con tàu được đặt tên theo những nhà cải cách quân đội người Phổ vào thế kỷ 19 Gerhard von Scharnhorst và August von Gneisenau.
Được chế tạo để hoạt động cách xa chính quốc, Scharnhorst và Gneisenau được phân về Hải đội Đông Á lần lượt vào năm 1909 và 1910. Scharnhorst đảm nhận vai trò soái hạm cho Hải đội thay phiên cho chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ Fürst Bismarck vốn đã được bố trí từ năm 1900. Cả hai chiếc trong lớp chỉ có cuộc đời hoạt động ngắn ngủi. Không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, các con tàu rời căn cứ tại Thanh Đảo, Trung Quốc cho chuyến đi tuần tra thường lệ. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1914, chúng tiêu diệt một hải đội Anh trong trận Coronel, thất bại đầu tiên của Hải quân Anh kể từ trận Plattsburgh năm 1814. Sau cùng, Hải đội Đông Á, bao gồm cả Scharnhorst và Gneisenau, bị đánh chìm trong trận chiến quần đảo Falkland vào ngày 8 tháng 12 năm 1914.
Thiết kế
nhỏ|trái|Sơ đồ lớp Scharnhorst như được mô tả trong [[Jane's Fighting Ships năm 1914]]
Các đặc tính chung
Những chiếc trong lớp Scharnhorst có chiều dài chung và chiều dài ở mực nước là . Chúng có mạn thuyền rộng , tầm nước sâu và có một trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , nhưng lên đến khi đầy tải. Lườn tàu được cấu trúc từ những khung thép ngang và dọc, trên đó các tấm thép lườn tàu được lắp bằng đinh tán. Các con tàu có 15 ngăn kín nước, và có một đáy tàu kép chiếm 50% chiều dài lườn tàu.
Các con tàu có thành phần thủy thủ đoàn đầy đủ gồm 38 sĩ quan và 726 thủy thủ. Khi hoạt động như là soái hạm của hải đội, Scharnhorst có một đội ngũ đông hơn, bổ sung thêm 14 sĩ quan và 62 thủy thủ; Gneisenau khi hoạt động như tàu chỉ huy thứ hai được tăng cường 3 sĩ quan và 25 thủy thủ. Các con tàu mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, hai xuồng đổ bộ, một xuồng chỉ huy, hai ca-nô, hai xuồng yawl và một xuồng nhỏ. Mỗi động cơ dẫn động một trục chân vịt; trên chiếc Scharnhorst chân vịt của trục giữa có đường kính trong khi chân vịt các trục bên có đường kính ; còn trên chiếc Gneisenau chúng đều hơi nhỏ hơn, với chân vịt giữa là và chân vịt bên là . Hơi nước cho các động cơ được cung cấp từ 18 nồi hơi đốt than kiểu hàng hải với tổng cộng 36 lò đốt. Hệ thống động lực này được thiết kế để cung cấp công suất , cho dù khi chạy thử máy các con tàu đều vượt hơn: Scharnhorst ở mức và Gneisenau lên đến . Các con tàu được dự định đạt được tốc độ , và khi chạy thử máy Scharnhorst đạt được và Gneisenau đạt được . Các con tàu chỉ có một bánh lái duy nhất. Lớp Scharnhorst là những tàu tuần dương cuối cùng của Đức trang bị máy phát với điện thế 110 volt, thiết kế tiếp theo, chiếc Blücher, có máy phát điện với điện thế 225 volt.
Vũ khí
nhỏ|Tháp pháo phía trước của Scharnhorst|alt=A large turret with two guns on a warship Dàn pháo chính của các con tàu bao gồm tám khẩu pháo SK L/40 bắn nhanh gồm bốn khẩu trên hai tháp pháo nòng đôi bố trí phía trước và phía sau cấu trúc thượng tầng, số còn lại đặt trên những tháp pháo nòng đơn hai bên mạn tàu. Pháo 21 cm bắn ra đạn pháo xuyên thép (AP) nặng với lưu tốc đầu đạn ; tốc độ bắn của chúng là 4 đến 5 phát mỗi phút. Các khẩu pháo được cung cấp tổng cộng 700 quả đạn pháo. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo xuyên thép với tốc độ bắn 4 đến 5 phát mỗi phút. Con tàu mang theo 170 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo, với tổng cộng 1.020 quả. Bệ pháo này có thể hạ tối đa cho đến góc −7° và nâng tối đa cho đến góc 20°, cho phép có tầm bắn tối đa ; chúng được vận hành và xoay hoàn toàn bằng tay.
Các con tàu còn được trang bị mười tám khẩu pháo SK L/45 bắn nhanh bố trí trong tháp pháo ụ. Chúng bắn ra đạn pháo nặng ở lưu tốc đầu đạn khoảng . Con tàu mang theo 150 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo, với tổng cộng 2.700 quả. Kiểu vũ khí này có khả năng bắn đến mục tiêu cách xa . Cũng giống như kiểu pháo 15 cm, chúng được vận hành và xoay hoàn toàn bằng tay.
Giống như mọi tàu chiến lớn vào thời đó, những chiếc trong lớp Scharnhorst còn được trang bị bốn ống phóng ngư lôi ngầm , gồm một trước mũi, một phía đuôi và một mỗi bên mạn giữa tàu, tất cả đều được đặt trên mặt nước. Con tàu mang theo tổng cộng 11 quả ngư lôi.
Vỏ giáp
Giống như mọi tàu chiến chủ lực Đức vào thời đó, những chiếc trong lớp Scharnhorst được bảo vệ bằng thép giáp Krupp. Chúng có đai giáp dày đến ở phần giữa con tàu nơi động cơ, các hầm đạn và các phần quan trọng khác được bố trí, và vuốt mỏng còn ở các phần còn lại, nhưng không kéo dài đến tận mũi và đuôi tàu; phía sau suốt chiều dài của đai giáp là một lớp lót bổ sung bằng gỗ teak. Sàn tàu bọc thép chính có độ dày tại các phần trọng yếu của con tàu, và giảm còn ở những phần ít quan trọng hơn. Sàn tàu bọc thép được nghiêng để tiếp giáp với đai giáp, phần này dày . Tháp chỉ huy phía trước được bảo vệ với các mặt hông dày và nóc dày ; tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn với các mặt hông dày và nóc dày . Các tháp pháo của dàn pháo chính có nóc dày và các mặt bên dày , trong khi các khẩu pháo giữa tàu được bảo vệ bởi các tấm chắn mặt trước dày và nóc dày . Pháo 15 cm được bảo vệ bởi các tấm chắn dày . Vào lúc bắt đầu Chiến tranh Thế giới thứ nhất, cả hai đang hiện diện tại quần đảo Caroline trong một chuyến đi thường lệ trong khi phần còn lại của Hải đội dưới quyền Đô đốc von Spee đang phân tán khắp Thái Bình Dương. Việc Nhật Bản tuyên chiến với Đức đã thuyết phục von Spee tập trung lực lượng dưới quyền cùng với các tàu tuần dương Leipzig và Dresden thuộc Trạm châu Mỹ và hướng đến Chile để tiếp nhiên liệu. Hải đội sau đó sẽ tìm cách quay trở về Đức qua ngã Nam Đại Tây Dương. Đô đốc von Spee cũng dự tính tấn công ba chiếc tàu tuần dương Anh dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Christopher Cradock và tiêu diệt mọi tàu bè Anh đụng độ. Vào ngày 22 tháng 9 năm 1914, Scharnhorst và Gneisenau tiến đến đảo Papeete tại Polynesia thuộc Pháp với ý định chiếm lấy số dự trữ than tại đây. Các con tàu tiến hành một đợt bắn phá ngắn dẫn đến việc đánh chìm chiếc pháo hạm cũ Zélée. Tuy nhiên, von Spee lo sợ lối ra vào cảng đã được cài mìn, nên quyết định né tránh nguy cơ. Người Pháp cũng đã đốt cháy số than dự trữ của họ để ngăn không cho phía Đức sử dụng.
Trận Coronel
Khoảng 17 giờ 00 ngày 1 tháng 12 năm 1914, Hải đội Đông Á Đức đụng độ với các con tàu dưới quyền Cradock ngoài khơi Coronel thuộc Chile. Vì các con tàu Đức chiếm ưu thế về tốc độ, von Spee duy trì một khoảng cách trước khi rút ngắn xuống còn để đối đầu với hải đội Anh lúc 19 giờ 00. Scharnhorst bắn trúng Good Hope khoảng 34 lần, ít nhất một trong các quả đạn pháo đã đánh trúng hầm đạn của Good Hope, gây hậu quả một vụ nổ khủng khiếp đã phá hủy con tàu. Tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Nürnberg đã tiến đến cự ly bắn thẳng để tấn công Monmouth, và sau khi bị bắn trúng nhiều phát Monmouth cũng bị chìm. Tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Glasgow cùng tàu tuần dương phụ trợ Otranto lẩn tránh được dưới sự che chở của bóng đêm. Thứ trưởng Hải quân Anh, Đô đốc Jackie Fisher nhớ lại "Đó là trận hải chiến buồn thảm nhất trong chiến tranh." Đây là thất bại đầu tiên mà Hải quân Hoàng gia Anh phải chịu đựng kể từ Trận Plattburgh năm 1814. Sau khi tin tức về trận chiến được báo cáo lên Hoàng đế Wilhelm II ở Berlin, ông ra lệnh tặng thưởng 300 huân chương Chữ thập sắt cho các thành viên trong hải đội của von Spee. Sau khi được tiếp nhiên liệu tại Valparaiso, Hải đội Đông Á Đức Quốc lên đường hướng đến quần đảo Falkland nhằm tiêu diệt trạm phát vô tuyến của Anh đặt tại đây.
Lúc khoảng 13 giờ 20 phút, các tàu chiến-tuần dương Anh nổ súng ở khoảng cách . Sau hai giờ chống cự, Scharnhorst chết đứng giữa biển và bị nghiêng nặng, con tàu bị đánh chìm không lâu sau đó. Gneisenau trúng khoảng 50 phát đạn pháo ở tầm gần, thủy thủ đoàn tung hô Kaiser ba lần trước khi con tàu chìm. Nürnberg và Leipzig cũng bị đánh chìm; riêng Dresden tìm cách lẩn tránh và tạm thời thoát được, để rồi cũng bị tiêu diệt ngoài khơi đảo Juan Fernández. Khoảng 2.200 người đã tử trận, trong số đó có Đô đốc von Spee.
