✨Giáp Văn Cương
Tiểu sử
Giáp Văn Cương sinh ngày 13 tháng 9 năm 1921 tại thôn An Thuẫn, xã Bảo Đài, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù sống trong một gia đình có điền sản (nhà có hàng trăm mẫu ruộng, giàu có nổi tiếng cả một vùng), nhưng rất giàu lòng yêu nước và có tinh thần cách mạng. Mặc dù là "cậu ấm" con nhà gia thế, được cưng chiều, chăm chút và hướng đi theo con đường học hành, khoa cử (được gia đình gửi xuống Hà Nội theo học trường Tây và từng là học sinh trường Bưởi) nhưng ông đã quyết chí đi theo con đường cách mạng. Từ "cậu ấm" con nhà giàu, bằng lòng yêu nước và có tài năng quân sự, ông đã trở thành một vị tướng nổi tiếng từng giữ nhiều trọng trách cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1942, Giáp Văn Cương thoát ly gia đình với mục đích tìm đường đến với cách mạng. Thông qua một người quen biết giới thiệu, ông đã được nhận vào làm việc trong ngành hỏa xa với chức ký ga Tam Quan (sau đó trở thành Trưởng ga Quy Nhơn - Diêu Trì, tỉnh Bình Định). Chính tại đây, Ông gặp được người con gái Hà Thành con nhà gia giáo, để rồi chuyện tình nảy nở và kết thúc bằng một cuộc hôn nhân đẹp. Người con gái đó chính là bà Nguyễn Thị Chắt - vợ của ông sau này.
Hoạt động trong kháng chiến chống Pháp
Năm 1945, ông bí mật gia nhập Việt Minh. Tháng 8 năm 1945 ông được cử làm Ủy viên quân sự trong Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Bình Định, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương.
Từ tháng 10 năm 1945 đến tháng 9 năm 1946, là Ủy viên Quân sự tỉnh Bình Định phụ trách Công binh xưởng Hoàng Hoa Thám.
Từ năm 1946 đến 1955, ông lần lượt giữ các chức vụ:
- Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 19 Ba Tơ, Trung đoàn 108 Liên khu 5 (10/1946 – 1947);
- Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 96 Liên khu 5 (1947 – 1949);
- Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108, Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Đắk Lắk (1949 – 1953);
- Phó Tham mưu trưởng Liên khu 5 kiêm Chỉ huy trưởng Quân cảng Quy Nhơn (12/1953 – 1954), tham gia đánh trận Đăk pơ (tháng 6 năm 1954);
Tham gia kháng chiến chống Mỹ
Ông tập kết ra Bắc và giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 324, Quân khu 4 (1955).
Năm 1963, ông được cử vào miền Nam chiến đấu và giữ các chức vụ:
- Đặc phái viên Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tại mặt trận Quảng – Đà (1963 – 1964).
- Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3 (Sao Vàng), Quân khu 5 (1964 – 1967).
- Thường vụ Đặc khu ủy, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận Quảng – Đà (1968 – 1970).
Tháng 10 năm 1970, ông giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 4, kiêm Phó Tư lệnh Mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị (B5).
Năm 1974, ông được thăng hàm Thiếu tướng, giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1974-1975).
Tháng 5 năm 1976 đến tháng 02 năm 1977, ông giữ chức Tư lệnh Quân khu 4.
Tư lệnh Quân chủng Hải quân
Năm 1977, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân, kế nhiệm thiếu tướng Nguyễn Bá Phát. Ông được thăng hàm Phó Đô đốc và giữ chức vụ này đến năm 1980.
Ông đã cùng tập thể Ðảng ủy Quân chủng xây dựng:
- Kế hoạch chiến đấu bảo vệ vùng biển (11-1977);
- Kế hoạch chiến đấu ở vịnh Bắc Bộ (12-1978);
- Kế hoạch chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa... (03-1979),.
Giai đoạn (1977 - 1980), ông chủ trương xây dựng Hải quân thật sự là một quân chủng kỹ thuật, chính quy, tinh nhuệ và thiện chiến. Trước hết là ban hành thực hiện điều lệnh, điều lệ, rèn luyện kỷ luật ... tăng cường hỏa lực cho tàu chiến đấu, huấn luyện diễn tập hiệp đồng lực lượng để tăng cường sức mạnh bảo vệ vùng biển và hải đảo.
Năm 1979, ông nhận lệnh chỉ huy Quân chủng tiếp tục giải phóng thị xã Koh kong, đảo Koh kong, Poulouvai, Kaoh Tang, góp phần giúp Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Pol Pot. Ngay chiều ngày 14-1-1979, theo lệnh ông, một phần sở chỉ huy Quân chủng Hải quân đã chuyển xuống tàu tiến thẳng đến cảng Kampong Som (Campuchia) để giải phóng thành phố cảng Sihanoukville, tỉnh Kampong Som.
Bảo vệ chủ quyền đất nước.
Năm 1984 ông đã nhận định: "Trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa không được bình yên và sẽ là chiến trường chính của hải quân Việt Nam". Trong hai năm 1986-1987, một mặt ông yêu cầu bộ phận tác chiến soạn thảo gấp kế hoạch và phương án phòng thủ Trường Sa, mặt khác ông chủ động và kiên trì đề xuất với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chấp thuận kế hoạch bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và thềm lục địa phía Nam. Kế hoạch bảo vệ Trường Sa của ông được cấp trên chấp thuận. Ông ra lệnh: nhanh chóng dốc toàn lực, đặc biệt là công binh, ra Trường Sa để tăng cường, củng cố tất cả đảo nổi đảo chìm mà quân dân Việt Nam đang đồn trú và sinh sống bao đời nay. Đối với những đảo chìm thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng chưa có quân đồn trú, ông yêu cầu "kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo, nếu cần có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi".
Sau đó đã xảy ra sự kiện Hải chiến Trường Sa 1988 với Trung Quốc. Tháng 3 năm 1988, con tàu HQ 505 anh hùng đã lao nhanh giữa những làn đạn đại bác, ủi thẳng lên đảo Cô Lin thuộc chủ quyền Việt Nam, trước khi quân địch đổ bộ chiếm đảo. Tàu hỏng nặng, bốc cháy, nhưng nó trở thành cột mốc chủ quyền và cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên đảo Cô Lin cho đến ngày nay. Để giữ bằng được quần đảo Trường Sa, Tư lệnh Giáp Văn Cương đã sử dụng lực lượng Hải quân hợp lí hiệp đồng với Không quân răn đe đối phương.
-
50x50px Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng ngày 07/05/2010).
-
50x50px Huân chương Độc lập hạng Nhất.
-
50x50px 2 Huân chương Quân công hạng Nhất.
-
52x52px Huân chương Chiến công hạng Nhất.
-
50x50px Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
-
52x52px Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
-
50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
-
50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
Vinh danh
Quân chủng Hải quân có chủ trương đề nghị cấp trên cho phép xây dựng Nhà Tưởng niệm Giáp Văn Cương tại quần đảo Trường Sa và đặt tên Giáp Văn Cương cho một hòn đảo trên quần đảo.
Năm 2009 Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Nẵng đặt tên đường Giáp Văn Cương cho một đường phố tại quận Liên Chiểu. Sau đó đến Khánh Hòa, Bắc Giang và Kon Tum là 3 tỉnh tiếp theo đã đặt tên đường Giáp Văn Cương.
Lịch sử thụ phong quân hàm
