✨Vùng thử nghiệm hạt nhân Nevada
Vùng thử nghiệm hạt nhân Nevada (tiếng Anh: Nevada Test Site, NTS; tên chính thức kể từ 2010 là Nevada National Security Site, NNSS) là một vùng đất thuộc sở hữu của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, nằm ở quận Nye, tiểu bang Nevada. Trước đây gọi là Nevada Proving Ground, khu vực này được thành lập ngày 11 tháng 1 năm 1951 cho việc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, bao gồm cả khu sa mạc gần đó và khu vực miền núi rộng 1.350 dặm vuông (3.500 km²), vùng thử nghiệm hạt nhân nằm ở khu vực thử nghiệm Nevada đã bắt đầu với một quả bom hạt nhân có trọng lượng nổ một kiloton (4 terajoule) trên mảng Yucca ngày 27 tháng 1 năm 1951. Nhiều hình ảnh độc đáo đã được ghi nhận từ kỷ nguyên hạt nhân tại đây.
Địa danh
Vị trí
nhỏ|Hố bom Sedan Plowshare của một vụ thử nghiệm hạt nhân Vùng thử nghiệm hạt nhân Nevada nằm khoảng 65 dặm (105 km) về phía tây bắc của thành phố Las Vegas, tại vị trí [https://geohack.toolforge.org/geohack.php?language=vi¶ms=37_07_N_116_03_W_&pagename=Nevada_Test_Site 37°07'LU 116°03'BT]. Các hố bom thử nghiệm có thể được nhìn thấy rõ từ Google Maps.
Thành phố Mercury, Nevada nằm trong khu thử nghiệm Nevada và nó đã bị đóng cửa cho việc hoạt động quân sự tại khu vực này, tại thời điểm này nó có chứa một số đại diện từ Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore, và Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia. Khu vực 51 và cơ sở xử lý nước thải có chứa nồng độ hạt nhân rất cao ở bình nguyên Yucca nằm gần đó. Tháp BREN, một tháp cao 1.527 feet (465 mét) để thử nghiệm các bức xạ từ lò phản ứng.
Cơ sở hạ tầng
nhỏ|Bản đồ cho thấy các khu vực trong NNSS và các chấm đỏ thể hiện các vụ thử nghiệm hạt nhân đã tiến hành Khu căn cứ chính của Vùng thử nghiệm Nevada gồm có:
- Khoảng 1.100 tòa nhà
- Con đường lát đá dài 400 dặm (643 km)
- Đường bộ không trải nhựa đường 300 dặm (482 km)
- 10 sân bay trực thăng
- 2 sân bay quân sự và dân sự
Các khu vực
Khu vực 1
Khu vực 1 đã được tổ chức 8 vụ thử nghiệm hạt nhân với tổng số 9 vụ nổ. Bốn lần kiểm tra khí quyển đầu tiên đã được tiến hành trên khu vực 1 trong năm 1950, cũng như ba lần thử nghiệm dưới lòng đất trong năm 1971 và 1990. Năm 1955, một cuộc thí nghiệm dân sự (còn gọi là hoạt động Cue trên báo chí) đã nghiên cứu sự ảnh hưởng từ các vụ nổ hạt nhân đối với các loại công trình xây dựng khác nhau; một vài cấu trúc vẫn còn đứng vững thậm chí còn nguyên vẹn hoặc chỉ bị vỡ ít.
Các phóng xạ hiện tại do được trên mặt đất ở Khu vực 1 đã cung cấp những thông tin về việc môi trường bị ô nhiễm X- quang và phóng xạ do việc thử nghiệm các phản ứng hạt nhân đầu tiên.
Khu vực 2
Khu vực 2 là một bộ phận của vùng thử nghiệm Nevada ở sa mạc Mojave. Khu vực này nằm cách 18 dặm về phía tây nam của khu vực 51.
Khu vực 2 đã được vùng thử nghiệm Nevada cho thử 144 bài kiểm tra thử nghiệm bao gồm 169 vụ nổ. Milk Shake bị rò rỉ phóng xạ đã không được phát hiện bên ngoài ranh giới NTS. nhỏ|280x280px|Một căn cứ trong khu vực 6
Khu vực 6
Khu 6 đã tổ chức 4 cuộc thử hạt nhân với tổng cộng 6 vụ nổ.
Các cơ sở thiết bị hội (DAF) Dự án 57 kiểm tra an toàn vũ khí đã được tiến hành ở đây trên 24 tháng 4 năm 1957, lan rộng hạt phát ra bức xạ alpha trên một diện tích lớn.
Khu vực 14
Khu 14 chiếm khoảng 26 dặm vuông (67 km 2 ) ở phần trung tâm của NNSS. Thí nghiệm ngoài trời khác nhau được thực hiện trong khu này. Không có thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển hoặc ngầm đã được tiến hành tại khu vực 14.
Khu vực 19
Pahute Mesa là một trong bốn khu vực thử nghiệm hạt nhân chính trong vùng an ninh quốc gia Nevada (NNSS). Nó chiếm 243 dặm vuông (630 km 2 ) ở góc phía tây bắc của NNSS. Phần đông được biết đến với Khu 19 và phần phía tây với Khu 20.
Tổng cộng có 85 thử nghiệm hạt nhân đã được tiến hành trong Pahute Mesa từ giữa năm 1965 và 1992. Ba trong số chúng là Boxcar, Benham và Handley - có năng suất trên một megaton. Ba thử nghiệm đã được tiến hành như một phần của Operation Plough và một như là một phần của Vela Uniform.
Khu vực 20
Là một khu vực thử nghiệm cũ, chưa từng có một vụ thử nghiệm nào diễn ra tại đây.
Khu vực 22
Không có thử nghiệm hạt nhân đã diễn ra tại khu vực 22.
Một sự phức tạp tại tám dặm vuông được xây dựng tại Khu 26 trong việc hỗ trợ của Dự án Pluto. những tòa nhà đã được sử dụng gần đây như các cơ sở lò phản ứng giả trong việc đào tạo các phản ứng đầu tiên.
Khu vực 27
Khu vực 28
Khu vực 28 không còn tồn tại; nó được gộp lại vào 2 khu vực là khu 25 và khu 27.
Khu vực 29
Không có thử nghiệm hạt nhân đã diễn ra tại khu vực 29. Các địa hình gồ ghề của khu 29 phục vụ như một bộ đệm giữa các khu vực khác của NNSS. Một sân bay trực thăng đã có mặt tại Shoshone Peak.
Khu vực 30
Khu vực 30 chiếm khoảng 59 dặm vuông (150 km 2 ) ở trung tâm của rìa phía tây của NNSS. Khu 30 có địa hình gồ ghề và bao gồm cả khu phía Bắc của Fortymile Canyon. Nó được sử dụng chủ yếu cho các cuộc huấn luyện quân sự và diễn tập.
Khu 30 đã được NTS cho một cuộc thử nghiệm đơn hạt nhân, Crosstie Buggy nghiệm phụ trách, một phần của hoạt động cày rẽ , mà liên quan đến 5 lần đồng loạt phá hủy.
Danh sách vụ thử hạt nhân
-
Operation Ranger — 1951
-
Operation Buster–Jangle — 1951
-
Operation Tumbler–Snapper — 1952
-
Operation Upshot–Knothole — 1953
-
Operation Teapot — 1955
-
Project 56 — 1955
-
Operation Plumbbob — 1957
-
Project 57, Project 58/58A — 1957–1958
-
Operation Hardtack II — 1958
-
Operation Nougat — 1961–1962
-
Operation Plowshare — 1961–1973 (sporadic, at least one test a year)
-
Operation Sunbeam (aka Dominic II) — 1962
-
Operation Dominic — 1962–1963
-
Operation Fishbowl - 1962
-
Operation Storax — 1963
-
Operation Niblick — 1963–1964
-
Operation Whetstone — 1964–1965
-
Operation Flintlock — 1965–1966
-
Operation Latchkey — 1966–1967
-
Operation Crosstie — 1967–1968
-
Operation Bowline — 1968–1969
-
Operation Mandrel — 1969–1970
-
Operation Emery — 1970
-
Operation Grommet — 1971–1972
-
Operation Toggle — 1972–1973
-
Operation Arbor — 1973–1974
-
Operation Bedrock — 1974–1975
-
Operation Anvil — 1975–1976
-
Operation Fulcrum — 1976–1977
-
Operation Cresset — 1977–1978
-
Operation Quicksilver — 1978–1979
-
Operation Tinderbox — 1979–1980
-
Operation Guardian — 1980–1981
-
Operation Praetorian — 1981–1982
-
Operation Phalanx — 1982–1983
-
Operation Fusileer — 1983–1984
-
Operation Grenadier — 1984–1985
-
Operation Charioteer — 1985–1986
-
Operation Musketeer — 1986–1987
-
Operation Touchstone — 1987–1988
-
Operation Cornerstone — 1988–1989
-
Operation Aqueduct — 1989–1990
-
Operation Sculpin — 1990–1991
-
Operation Julin — 1991–1992