✨USS Essex (CV-9)

USS Essex (CV-9)

USS Essex (CV/CVA/CVS-9) là một tàu sân bay, chiếc dẫn đầu của lớp tàu sân bay Essex bao gồm tổng cộng 24 chiếc được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Thế Chiến II. Nó là chiếc tàu thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Được đưa vào hoạt động vào tháng 12 năm 1942, Essex tham gia vào nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống và 13 Ngôi sao Chiến trận. Được rút khỏi hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nó được hiện đại hóa và được vào hoạt động trở lại vào đầu những năm 1950 như một tàu sân bay tấn công CVA-9, và sau đó như là một tàu sân bay chống tàu ngầm CVS-9. Trong giai đoạn hoạt động thứ hai nó phục vụ chủ yếu tại châu Âu, từng tham gia hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên cũng như can thiệp trong vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba, được tặng thưởng thêm bốn Ngôi sao Chiến trận khác và danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân. Nó là chiếc tàu sân bay chính phục vụ cho việc thu hồi chuyến bay vũ trụ Apollo 7. Con tàu được rút khỏi phục vụ lần cuối cùng vào năm 1969 và được bán để tháo dỡ vào năm 1975.

Thiết kế và chế tạo

Essex được đặt lườn vào ngày 28 tháng 4 năm 1941 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại xưởng đóng tàu Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 7 năm 1942 dưới sự đỡ đầu của Bà Artemus L. Gates, phu nhân Trợ lý Không lực của Bộ trưởng Hải quân. Con tàu được cho nhập biên chế vào ngày 31 tháng 12 năm 1942 dưới sự chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân Donald B. Duncan.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

nhỏ|USS Essex, tháng 5 năm 1943 Sau chuyến đi thử máy, Essex khởi hành đi sang Thái Bình Dương vào tháng 5 năm 1943 để bắt đầu một loạt các hoạt động chiến đấu. Rời Trân Châu Cảng, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 16 trong chiến dịch không kích lên đảo Marcus ngày 31 tháng 8 năm 1943; rồi trở thành soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 14 và không kích xuống đảo Wake từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 10. Cùng với các tàu sân bay và , nó tham gia các hoạt động không kích xuống Rabaul ngày 11 tháng 11 năm 1943. Con tàu đã cùng với Đội đặc nhiệm 50.3 tung ra cuộc tấn công vào quần đảo Gilbert, nơi nó lần đầu tiên tham gia một cuộc tấn công đổ bộ lên đảo san hô Tarawa từ ngày 18 đến ngày 23 tháng 11 năm 1943. Được tiếp nhiên liệu ngoài biển, nó trở thành soái hạm của Đội đặc nhiệm 50.3 để tấn công Kwajalein ngày 4 tháng 12 năm 1943. Cuộc tấn công đổ bộ thứ hai của nó được thực hiện cùng với Đội đặc nhiệm 58.2 lên quần đảo Marshall từ ngày 29 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 1944. hàng hải đối với Cuba vào tháng 10 năm 1962. Động thái này là nhằm phản ứng lại việc phát hiện ra tên lửa đạn đạo tầm trung Liên Xô mang đầu đạn hạt nhân được bố trí trên hòn đảo này, trong sự kiện Khủng hoảng tên lửa Cuba. Chiếc Essex trải qua trên một tháng trong vùng biển Caribbe trong lực lượng các tàu chiến Hải quân Mỹ thực thi lệnh "cách ly" này, và chỉ quay trở về cảng nhà ngay trước lễ Tạ Ơn.

Các chuyến bay vũ trụ Apollo

Essex được lên kế hoạch sẽ là tàu sân bay thu hồi chính cho chuyến bay vũ trụ xấu số Apollo 1. Nó dự tính sẽ vớt các nhà du hành vũ trụ của chuyến bay này tại vùng biển phía Bắc Puerto Rico vào ngày 7 tháng 3 năm 1967 sau chuyến bay vũ trụ dự tính kéo dài 14 ngày. Tuy nhiên, chuyến bay này đã không được thực hiện vì đội bay của chiếc Apollo 1 đã tử nạn vào ngày 27 tháng 1 năm 1967 do một đám cháy xảy ra bên trong phi thuyền của họ ở Trạm không quân Mũi Canaveral, Florida.

Essex là tàu sân bay chính phục vụ cho việc thu hồi chuyến bay vũ trụ Apollo 7. Nó đã vớt được đội bay Apollo 7 vào ngày 2 tháng 10 năm 1968 sau khi chiếc tàu vũ trụ hạ cánh xuống phía Bắc Puerto Rico.

Essex cũng là chiếc tàu sân bay mà nhà du hành vũ trụ Neil Armstrong của chuyến bay vũ trụ lịch sử Apollo 11 lần đầu tiên đưa người lên Mặt Trăng từng phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên.

Rút khỏi hoạt động và loại bỏ

Essex được rút khỏi hoạt động vào ngày 30 tháng 6 năm 1969. Nó được loại khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1973, và được bán để tháo dỡ vào ngày 1 tháng 6 năm 1975.

Phần thưởng