✨Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, Moskva
Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Moskva hay Nhà thờ chính tòa Đức Maria vô nhiễm nguyên tội Moskva (, Sobor Neporotschnowo Satschatija Preswjatoj Dewy Marii, tên bình dân là: Костёл / Kostjol hay Кирха / Kirkha - "Nhà thờ Công giáo") là một nhà thờ kiến trúc tân Gothic được tổng giáo phận Công giáo Moskva dùng làm nhà thờ chính tòa. Nằm trong quận trung tâm, đây là một trong 2 nhà thờ duy nhất của Công giáo ở Moskva và là nhà thờ Công giáo lớn nhất ở Nga.
Việc xây dựng nhà thờ chính tòa này do chính quyền Sa hoàng đề nghị năm 1894. Lễ khởi công diễn ra năm 1899. Việc xây dựng bắt đầu từ năm 1901 và được hoàn thành 10 năm sau. Nhà thờ gồm 3 gian dọc, xây bằng gạch đỏ theo bản thiết kế của kiến trúc sư Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki. Phong cách kiến trúc chịu ảnh hưởng của tu viện Westminster và nhà thờ chính tòa Milano.
Được các quỹ của các giáo xứ Nga và các nước lân bang đài thọ, nhà thờ được thánh hiến như một nhà nguyện dành cho giáo xứ người Ba Lan ở Moskva năm 1911. Do hậu quả của cuộc cách mạng Nga năm 1917, chính phủ lâm thời Nga bị những người Bolshevik lật đổ và nước Nga trở thành một nước trong Liên bang Xô Viết. Do chủ trương áp dụng chủ nghĩa vô thần chống mọi tôn giáo, chính phủ Xô Viết ra lệnh đóng cửa nhà thờ này vào năm 1938. Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà thờ này đã bị đe dọa phá hủy, nhưng sau chiến tranh thì nhà thờ này được sử dụng cho các mục đích dân sự như nhà kho và sau đó là nhà ăn ở tập thể. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu năm 1991, nhà này được trả lại dùng làm nhà thờ từ năm 1996. Năm 2002 nhà thờ này được nâng lên hàng nhà thờ chính tòa. Sau một đợt trùng tu và trang trí lại tốn kém, nhà thờ này đã được tái thánh hiến trong năm 2005.
Sau 58 năm bị sử dụng vào những mục đích dân sự, nhà thờ này lại được dùng làm nơi thờ tự. Hiện nhà thờ có những nghi thức phụng vụ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Nga, tiếng Ba Lan, tiếng Triều Tiên, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Armenia và tiếng Latin. Đàn đại phong cầm của nhà thờ hiện nay là đàn organ thứ ba kể từ khi xây nhà thờ, do nhà thờ chính tòa Basel (Thụy Sĩ) tặng.
Hiện nay, nhà thờ này được đưa vào danh sách di sản của Liên bang Nga và được bảo tồn.
Lịch sử
Thời kỳ xây dựng đầu tiên
nhỏ|Bản thiết kế quy hoạch của kiến trúc sư [[Foma Osipovitch Bogdanovitch-Dvorzhetskij|Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki]]
Vào cuối thế kỷ 19, ở Moskva chỉ có 2 nhà thờ Công giáo: nhà thờ thánh Louis của người công giáo Pháp và nhà thờ thánh Phêrô và Phaolô dành cho người Công giáo Ba Lan. Do cộng đoàn người Công giáo Ba Lan ở Moskva tăng lên tới khoảng 30.000 người, ngôi nhà thờ của họ trở nên quá nhỏ bé, không đủ sức chứa. Sau khi nộp đơn lên thống đốc Moskva xin xây một nhà thờ mới, năm 1894 hội đồng thành phố đã biểu quyết cho phép xây một nhà thờ mới, với nhiều điều kiện trong đó có 2 điều kiện liên quan tới địa điểm xây cất: nhà thờ mới phải xây ở bên ngoài trung tâm khu thành cổ, và không được ở gần nơi thánh thiêng của Chính thống giáo Nga.
Một điều kiện nữa mà Hội đồng thành phố áp đặt cho việc xây dựng nhà thờ mới như sau: "Xét vì đã có sẵn 2 nhà thờ Công giáo rồi, thì nhà thờ tương lai phải lớn hơn các nhà thờ cũ, với một thánh giá ở đầu hồi, nhưng không có tháp chóp nhọn và tượng điêu khắc ở bên ngoài".
Trong thập niên 1960 và 1970, phần bên ngoài của nhà thờ bị hư hại nhiều. Vào cuối thập niên 1970 thành phố định tái thiết ngôi nhà thờ để có thể dùng làm phòng hòa nhạc cho đàn organ hoặc trung tâm văn hóa nói chung. Tuy nhiên các dự án này không hề được thực hiện, do sự phản kháng của Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt.]] Đầu thập niên 1990, "Cơ quan bảo vệ Công trình xây dựng lớn" đã lập kế hoạch tu bổ nhà thờ dự trù vào năm 1997 nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập thành phố Moskva lần thứ 850. Đề án này đã không được thực hiện do tranh chấp về việc chiếm giữ. Tuy nhiên, năm 1995 thành phố đã quyết định cho tu bổ và giáo xứ phải chịu các chi phí tu bổ. Một ban tái thiết đã được thành lập gồm linh mục chính xứ Josef Sanevski làm chủ tịch, các thành viên là sử gia người Nga Stanislav Durnin, nhà thầu xây dựng Ba Lan và chính trị gia Grzegorz Tuderek. Nhà thờ làm lễ tái khai trương ngày 12 tháng 12 năm 1999 và được hồng y quốc vụ khanh của giáo triều Rôma Angelo Sodano tái thánh hiến.
Ống đàn bè trầm chính dài 10 mét được giữ lại, sau đó đã được dùng cho chiếc đàn organ mới của nhà thờ chính tòa Münster. Ống đàn này có khả năng tạo một âm 16,35 Hertz, với âm Đô trầm có 4 quãng 8 trầm hơn âm Đô trung, sau đó đã được tái tạo ở Moskva và được gắn thêm vào đàn đại phong cầm của nhà thờ trong năm 2009.. Tháng 3 năm 2002, các thành viên của nhà thờ chính tòa và các giáo dân Công giáo từ các thành phố châu Âu khác đã tham gia buổi đọc tràng hạt Mân Côi do Giáo hoàng dẫn dắt thông qua phương tiện truyền hình.
Từ khi tái mở cửa, nhiều lễ nghi phụng vụ đã được cử hành hàng ngày trong nhà thờ. Ngôn ngữ chính trong thánh lễ là tiếng Nga, nhưng cũng có các thánh lễ được cử hành bằng tiếng Ba Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Triều Tiên, tiếng Latin và tiếng Armenia (theo Nghi lễ Armenia).
Đàn đại phong cầm tái thiết — với 74 nút điều chỉnh hơi, 4 dàn phím và 5.563 ống hơi — được Tổng Giám mục Tadeusz Kondrusiewicz thánh hiến ngày 16 tháng 1 năm 2005. Sau lễ thánh hiến là buổi hòa nhạc mở đầu "Liên hoan quốc tế nhạc đàn organ lần thứ nhất" (First International Festival for Organ Music). Liên hoan này kéo dài 1 tháng với nhiều buổi hòa nhạc organ trong nhà thờ chính tòa này. Buổi hòa nhạc kết thúc liên hoan diễn ra dưới sự điều khiển của nhạc sĩ chơi đàn organ James Edward Goettsche của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Đàn organ và các buổi hòa nhạc phụng vụ diễn ra thường xuyên trong nhà thờ chính tòa này; thông thường thì vào cửa miễn phí, ngoại trừ những buổi hòa nhạc chọn lọc phải mua vé vào cửa. Một buổi hòa nhạc tưởng niệm những nạn nhân của Vụ rơi máy bay Tu-154 của Không quân Ba Lan năm 2010 đã được tổ chức ngày 12 tháng 4 năm 2010.