✨Đạo quân Quan Đông
Đạo quân Quan Đông (; Hán-Việt: Quan Đông quân) là một trong các tổng quân (sōgun) của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của lục quân Nhật, được xây dựng từ lính tuyển chọn của các đơn vị lục quân. Đạo quân này gồm những binh sĩ ưu tú và cuồng tín nhất của chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Đạo quân này đã chạm trán với các đơn vị tinh nhuệ của Hồng quân Liên Xô trong những khoảng thời gian ngắn ngủi cuối cùng của Thế chiến II trong Chiến dịch Mãn Châu vào tháng 8 năm 1945. Đạo quân Quan Đông đã bị giải tán sau khi Thế chiến II kết thúc.
Lịch sử
Lực lượng này đồn trú tại Quan Đông - tô giới của Nhật Bản tại Trung Quốc - nên có tên gọi như vậy. Tiền thân của Đạo quân Quan Đông là lực lượng bảo vệ của Phủ Đô hộ Quan Đông. Tới năm 1918 thì tách thành lực lượng độc lập. Bộ tư lệnh Đạo quân Quan Đông ban đầu đóng tại cảng Lữ Thuận. Ban đầu, quy mô của nó chỉ là một quân đoàn. Song sau Sự kiện Mãn Châu, nó được nâng cấp thành tổng quân, dời trụ sở bộ tư lệnh đến thủ đô của Mãn Châu Quốc là Tân Kinh (nay là thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc).
Đây là lực lượng tinh nhuệ và hiếu chiến của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Nhiều chỉ huy của Đạo quân Quan Đông đã thăng tiến thành các nhà lãnh đạo của quân đội và chính phủ Nhật Bản. Chính lực lượng này đã tự tiện ám sát Trương Tác Lâm và bố trí sự kiện Mãn Châu để thay đổi chính sách ngoại giao của Chính phủ Nhật Bản, dẫn tới Chiến tranh Thái Bình Dương. Mặc dù có tên thường gọi là Đức Binh Đoàn (徳兵団), song đạo quân này lại bị phê phán bởi các hành động của họ như không tuân lệnh cấp trên (Bộ Tồng tham mưu và Bộ Lục quân) với lý do "coi trọng kết quả, xem thường quy trình thủ tục", buôn bán á phiện
Đạo quân Quan Đông là đạo quân mạnh nhất trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản và là đạo quân nổi tiếng đã từng khiến Mỹ và các Đồng minh e dè. Tuy nhiên, do sự đầu tư của Nhật Bản trước Thế chiến II chủ yếu tập trung cho Hải quân và Không quân, khiến cho lục quân Nhật kể cả đạo quân Quan Đông trang bị yếu kém, nhất là về sức mạnh tăng thiết giáp. Chính vì điều này, xét về tương quan trang bị, dù cho có ý chí chiến đấu đến điên cuồng, năng lực của đội quân này không thể là đối thủ của Hồng quân. Trong tháng 8 năm 1945, đạo quân Quan Đông đã kiên trì kháng cự Hồng quân Liên Xô. Sự sụp đổ của đạo quân này chỉ còn là vấn đề thời gian. Tuy vậy, tuyên bố đầu hàng và lệnh hạ khí giới của Thiên hoàng đã làm cho Đạo quân này đầu hàng nhanh chóng. Điều đó đã tránh cho sự sụp đổ hoàn toàn.
Đạo quân này từng là niềm hy vọng của Thiên hoàng và Đế quốc Nhật, nhưng xét tình hình thế và lực của Nhật Bản vào thời điểm tàn cuộc của Thế chiến II, Thiên hoàng đã quyết định chấp nhận các điều khoản của Tuyên bố Potsdam. Quyết định cay đắng nhưng sáng suốt khi đó đã tránh cho rất nhiều sinh mạng của binh lính lẫn thường dân Nhật và Đồng minh mất mát.
Biên chế
Trong biên chế của Đạo quân Quan Đông có 3 phương diện quân, 2 quân đoàn độc lập. Cụ thể như sau:
- Phương diện quân 1 Tập đoàn quân 3 Tập đoàn quân số 5 Sư đoàn 122 Sư đoàn 134 Sư đoàn 139 Đội quân cảnh đặc biệt số 2
- Phương diện quân 3 Tập đoàn quân số 30 Tập đoàn quân số 44 Sư đoàn 108 Sư đoàn 136 Lữ đoàn hỗn hợp độc lập 79 Lữ đoàn hỗn hợp độc lập 130 Lữ đoàn hỗn hợp độc lập 134 Sư đoàn độc lập số 1 ** Đội quân cảnh đặc biệt số 1
- Phương diện quân 17 Tập đoàn quân số 58 Sư đoàn 120 Sư đoàn 150 Sư đoàn 160 ** Lữ đoàn hỗn hợp số 127
- Tập đoàn quân số 4 Sư đoàn 119 Sư đoàn 123 Sư đoàn 149 Lữ đoàn hỗn hợp độc lập số 80 Lữ đoàn hỗn hợp độc lập số 131 Lữ đoàn hỗn hợp độc lập số 135 ** Lữ đoàn hỗn hợp độc lập số 136
- Tập đoàn quân số 34 Sư đoàn 59 Sư đoàn 137 ** Lữ đoàn hỗn hợp độc lập số 133
Ngoài ra còn một loạt các đơn vị, các ban chỉ huy trực thuộc.
Danh sách chỉ huy
Các tư lệnh
Tư lệnh của Đạo quân Quan Đông mang hàm đại tướng lục quân. Sau đây là danh sách các tư lệnh qua các thời kỳ.
Các tham mưu trưởng
